Hy vọng cuối cùng về một kết quả “kết thúc đàm phán cuối năm 2013” đã tan chảy trong nỗi phiền muộn đông cứng của giới lãnh đạo kinh tế Việt Nam. Lần cuối cùng trong năm nay, Hội nghị bộ trưởng các nước tham gia đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) tại Singapore đã kết thúc ngày 10/12 mà không khởi sự được bất kỳ thỏa thuận quan yếu nào đối với đất nước của sáu năm suy thoái kinh tế.
Ông Trần Quốc Khánh, Trưởng đoàn đàm phán TPP Việt Nam, đã không giấu nổi vẻ thất vọng khi trả lời phỏng vấn của báo giới trong nước: đàm phán trong lĩnh vực hàng hóa, lĩnh vực có ý nghĩa quan trọng nhất, lại khá trì trệ.
Trước và sau vòng đàm phán thứ 19 tại xứ sở dầu mỏ Brunei vào tháng 8/2013, cũng ông Khánh đã không dưới hai lần thốt lên kỳ vọng về một không khí hạnh vận cho phái đoàn của ông. Rất tương xứng với tâm trạng sốt ruột của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ở New Jork vào tháng 9/2013, bất cứ ai trong giới thuộc cấp điều hành kinh tế cũng đều thấm thía việc “công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh” vẫn là cửa ải đầu tiên mà những người đang cố gắng hoàn chỉnh chủ thuyết “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” phải vượt qua.
Bởi chỉ sau cửa ải khó khăn nhất về mặt quan niệm, giới chức chủ trì TPP như Mỹ và 4 quốc gia khác mới có thể xem xét về những nội dung bị xem là “trì trệ” trong việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang các nước nội khối.
Cho dù luôn được báo giới đảng tuyên truyền “Việt Nam sẽ là quốc gia hưởng lợi nhất trong TPP”, nhưng điều tréo ngoe là sự thụ hưởng ấy vẫn rất mơ hồ, nếu chiếu theo một quy định không thể “linh hoạt” trong TPP là hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam phải có xuất xứ từ các nước nội khối hiệp định này.
'Một điều kỳ lạ'
Rào cản kỹ thuật này là quá cao và đầy gai nhọn, bởi cho tới nay, khoảng 80-90% nguyên phụ liệu dùng để sản xuất hàng xuất khẩu của nển kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc vào Trung Quốc, và hơn thế là dường như không thể thoát khỏi vòng kềm tỏa từ ý chỉ của Bắc Kinh.
Cùng với việc Trung Quốc không phải là một thành viên của TPP, điều quá khó cho nền kinh tế Việt Nam chắc chắn sẽ được giải thích theo cách nhìn “trì trệ” của ông Trần Quốc Khánh, và càng khó hơn nhiều nếu Nhà nước Việt Nam bắt buộc phải chuyển đổi vùng nhập khẩu nguyên liệu nếu muốn hưởng một chút lợi lộc từ sáng kiến “xoay trục” sang phương Tây mới phát tiết trong gần một năm qua.
Đã qua hẳn cái thời đầy ưu ái nhưng không thể tận dụng được hai cơ chế Hiệp định song phương thương mại Việt - Mỹ và thành viên Tổ chức thương mại thế giới. Trong đúng một con giáp được coi là lãng mạn ấy, nền kinh tế Việt Nam đã chỉ duy nhất một lần được xem là “cất cánh” với tốc độ tăng tiến như vũ bão của hai thị trường đầu cơ bất động sản và chứng khoán. Thế nhưng sau đó, chính gia tốc đầu cơ đã giết chết mômen sinh lực cuối cùng của nền kinh tế này. Tất cả đều trở nên què quặt và cuối cùng phải nhờ vào một nguồn ngoại viện mới: TPP.
Khác rất nhiều với các báo cáo tô hồng “kinh tế đang ổn định” của giới chức chính phủ, TPP dĩ nhiên là một lối thoát, thậm chí là một lối mở tươi lành nhất mà chính thể một đảng ở Việt Nam có thể vận dụng để ít nhất cũng tạm làm yên lòng dân chúng, hạn chế được phần nào những phẫn uất của dân nghèo về sự tàn bạo của các nhóm lợi ích, và cách nào đó tạm thời kìm giữ những ý tưởng hoặc hành động cần phải thay đổi thể chế chính trị.
Thế nhưng điều kỳ lạ là dù vẫn ngầm xem TPP là một cái phao cứu sinh, trong suốt ba năm qua Hà Nội vẫn hầu như chẳng làm gì để bổ túc cho hồ sơ ứng cử viên TPP như cải cách kinh tế và giảm tính độc quyền của khối doanh nghiệp nhà nước, tăng tính minh bạch và tính hữu dụng cho cuộc chiến chống tham nhũng, kể cả một số vấn đề liên quan khác như môi trường, quyền lập hội lao động…
Ai mua chính trị?
Nguyên do sâu xa nào đã ngăn cản tiến trình Việt Nam gia nhập TPP và làm cho sự vụ này bị “lỗi hẹn” - như cách mô tả đầy văn hoa của báo chí Việt Nam - trong thời gian qua?
Sau một chuỗi thất vọng, cuối cùng trưởng đoàn đàm phán TPP Việt Nam Trần Quốc Khánh đã lần đầu tiên buột ra một ẩn ức bấy lâu nay: “Việt Nam đã khẳng định với các nước tham gia đàm phán TPP là do xuất khẩu hàng hóa là quyền lợi quan trọng của Việt Nam, nên xuất khẩu đàm phán hàng hóa cần đạt được những tiến triển đủ lớn để Việt Nam có thể cân nhắc xem xét và đưa ra các quyết định trong các lĩnh vực đàm phán khác, kể cả quyết định mang tính chính trị”.
Lần đầu tiên, phạm trù “chính trị” được giới quan chức Việt Nam tiết lộ trong một ngữ cảnh gắn liền với TPP, cho dù trước đó giới hoạt động nhân quyền Hoa Kỳ và quốc tế đã nói thẳng về một điều kiện song hành về chính trị - kinh tế đối với Hà Nội. Vào giữa năm 2013, một nghị sĩ của Cộng đồng châu Âu còn không úp mở là họ không những có thể ủng hộ mà còn có thể vận động cho Việt Nam tham gia vào TPP và cả Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc, nhưng với điều kiện quốc gia này phải hành xử một cách thực chất đối với những cải thiện về quyền con người.
Nhưng sau hơn 4 tháng kể từ cuộc gặp Trương Tấn Sang - Barak Obama tại Washington, hồ sơ vi phạm nhân quyền Việt Nam trên bàn các tổ chức nhân quyền quốc tế vẫn tiếp tục dày lên. Những báo cáo gần đây của Tổ chức Ân xá quốc tế và Tổ chức Nhân quyền quốc tế mô tả Nhà nước Việt Nam đã không có bất cứ tiến bộ gì trong thời gian qua. Thậm chí vào ngày nhân quyền quốc tế 10/12 năm nay, việc kỷ niệm của một số blogger còn bị khống chế, sách nhiễu công khai, và cụm từ “nền nhân quyền mắm tôm” cũng phát sinh từ thực tế chẳng mấy hoan hỉ ấy.
Trong lúc tạm gác lại chủ trương bắt bớ vì lý do mở cửa đối ngoại, hiện hữu đáng buồn là một bộ phận không nhỏ giới chức lãnh đạo và an ninh lại đang “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” đến một nền văn hóa đấm đá nhân quyền. Tất cả các nhân vật dân chủ và bất đồng, không phân biệt thành phần và tôn giáo giáo, nếu không được sự quan tâm đầy đủ của chính giới quốc tế đều có thể bị o ép và bị đối xử với đẳng cấp văn hóa vùng đáy, đặc biệt ngay tại thủ phủ của bản Tuyên ngôn độc lập và thành phố mang tên Bác Hồ.
'Con bài ngã giá'
Tình trạng luật sư công giáo Lê Quốc Quân - một trong những tiêu điểm mà giới hoạt động nhân quyền quốc tế đặc biệt chú tâm, cũng chẳng khá gì hơn. Sau vòng đàm phán từ 19 ở Brunei không mang lại một kết quả thuận lợi nào cho phía Việt Nam, điều được trưởng đoàn đàm phán Trần Quốc Khánh ẩn dụ là “quyết định mang tính chính trị” đã lộ diện bằng phán quyết ba chục tháng tù giam cho vị luật sư tranh đấu cho dân chủ. Rất tương đồng, người em trai của ông Quân cũng bị ghép vào tội trốn thuế và lãnh mức án sơ thẩm 28 tháng tù giam sau đó không lâu.
Thân phận và số phận của các nhân vật bất đồng chính trị khác trong trại giam cũng chẳng hề khả quan hơn Lê Quốc Quân. Giới dân chủ nhân quyền nói thẳng rằng đó là những con bài chính trị mà nhà nước muốn dùng để trao đổi, ngã giá một khi cần thiết.
Rõ là mọi chuyện chưa hề kết thúc, và cứ đà này thì còn lâu mới hết chuyện để nói.
Khác hẳn với các đợt thả tù chính trị liên tiếp ở Miến Điện và lòng chân thành đáng khen ngợi của Tổng thống Thein Sein, Hà Nội vẫn đang tự dìm mình trong một tâm thế cố chấp và tự kỷ. “Tài nguyên nhân quyền” - thứ tài sản còn sót lại trong một đất nước đã bị cạn kiệt gần như tất cả các nguồn tài nguyên, có vẻ trở nên sáng giá hơn bao giờ hết.
Muốn có tất cả nhưng lại chẳng muốn trả giá, hoặc nếu phải trả giá thì chỉ là một cái giá rất rẻ, không thể nói những nhà lãnh đạo Việt Nam thực sự khôn ngoan trong các toan tính cá nhân được quyết định bởi chủ nghĩa tập thể của họ. Sự chùng kéo như thế càng khiến thời gian trôi qua một cách uổng phí, nền kinh tế càng có vô số cơ hội lao dốc, dân tình càng thán oán và ngày càng dày dạn các phản ứng xã hội liều lĩnh…, trong khi không có bất kỳ một cải thiện nào để cứu vãn quốc gia.
'Không thể có tên'
Thời điểm cuối năm 2013 đã đến rất gần. Một cái tết Nguyên đán cũng đang tiến sát cận ranh chịu đựng của người dân và cả các ngân hàng Việt Nam - những kẻ đang phải đối mặt với nguy cơ tan rã. Nhưng ráng hồng đầu tiên của cầu vồng TPP vẫn chưa hề hiện ra.
Cho dù vẫn có lời hứa hẹn vòng đàm phán kế tiếp vào tháng Giêng năm 2014 có thể mang lại một kết quả khả quan nào đó, nhưng thực tế hiển nhiên là giờ đây Việt Nam không còn là ưu tiên số một trong con mắt người Mỹ, và trong danh sách đối tác kinh tế chủ lực của Nhà Trắng chắc chắn không thể có cái tên Hà Nội.
Cho dù Ngoại trưởng John Kerry luôn hứa hẹn “Nơi nào có quyền lợi chung thì nơi đó Mỹ và Việt Nam có thể hợp tác”, điều được xem là “thành tâm chính trị” của Hà Nội mới là lời hứa có giá trị nhất trong bối cảnh nhập nhoạng hiện thời.
Không mang tính thực chất trong chuyến viếng thăm Việt Nam vào giữa tháng 12/2013, lần đáp từ thứ 14 của ngoại trưởng John Kerry chỉ có ý nghĩa như một sự tái tạo hình ảnh của Hoa Kỳ cùng ảnh hưởng văn hóa của nó trong lòng dân chúng xứ sở cựu thù.
Tất cả chỉ có thế.
Nguồn: BBC